Trân trọng Kính mời các đại biểu, người con làng Vân Tra đang sinh sống làm việc xa quê về dự lễ hooijj của Làng Vân Tra vào ngày 09/2/2017 tức 13 tháng giêng Âm lịch
Làng Vân Tra
Làng Vân Tra thuộc xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Có cụm di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật đình chùa được nhà nước công nhận là di tích cấp Quốc gia từ năm 1994. Hàng năm làng có hai kì lễ hội chính là hội thượng nguyên chùa "Nhuệ Quang" rằm tháng giêng. Hội đình từ 11 - 12- 13- 14 tháng hai âm lịch. Hội rằm tháng giêng có tổ chức thi đầu vật truyền thống.
Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017
Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016
Chương trình văn nghệ của Làng kỷ niệm ngày sinh nhật Bác kính yêu và chào mừng ngày bầu cử Quốc hội
Chương trình văn nghệ của Làng văn hoá Vân Tra, xã An Đồng kỷ niệm ngày sinh nhật Bác kính yêu và chào mừng ngày bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thành công tốt đẹp. Cảm ơn bác Trưởng làng!
https://www.facebook.com/trieu.d.hung.5/videos/2183549811783996/
https://www.facebook.com/trieu.d.hung.5/videos/2183549811783996/
Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016
Đào Văn Lôi, nhân vật lịch sử được phong Thánh gần 1.000 năm trước - Bài nghiên cứu
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Lý có ghi, tháng 11 năm 1029 vua Lý Thái Tông phong Đào Văn Lôi là Tả phúc tâm. Với chức vị ấy, ông là một trong những người gần gũi với vua và có thể tham gia vào nhiều quyết định quan trọng của triều đình. Vậy Đào Văn Lôi là ai? Quê quán ở đâu và sự nghiệp ra sao?... Đó hẳn còn là một bí ẩn đối với hầu hết mỗi chúng ta. Theo bài viết của nhà văn Thiên Sơn - một người con xứ Nghệ, về quá trình đi tìm những tư liệu, bằng chứng lịch sử của một vị anh hùng, một bậc đại trí thức, một bậc đại công thần thời hậu Lý mà từ lâu nhân dân đã phong
Tại Xã Diễn Kim (xưa gọi là Làng Hoa Lũy), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trước đây có 3 ngôi đền từng được xây dựng và phụng thờ từ mấy trăm năm trước, nhưng sau Cách mạng tháng 8, vì những thiên kiến của một số người, tất cả những ngôi đền ấy đã bị phá hủy.
Diễn Kim là vùng đất trước biển sau sông, dân sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dâu tằm và làm muối. Các cụ già thường kể lại nhiều câu chuyện kỳ lạ về sự linh ứng của thần linh nơi đây chở che cho dân trong những lần bão lớn ập vào làng. Một trong những giai thoại được truyền tụng rộng nhất kể rằng trong đợt hành quân vào phương Nam đánh Chiêm Thành năm 1471, khi thuyền rồng của Vua Lê Thánh Tông đi qua vùng biển Diễn Châu, đêm, vua được thần báo mộng có bão lớn, bèn sai lính cho thuyền đổ bộ lên bờ tránh nạn. Chỗ vua trú ngụ trên đất Hoa Lũy đến nay vẫn được nhân dân Diễn Kim ghi dấu, gọi là Bến Ngự. Sau lần đó, Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành thắng lợi, khi về đã ra lệnh lập đền thờ thần ở đất Làng Hoa Lũy. Nhiều sử liệu để lại cũng cho thấy, trước đó, vùng Lạch Vạn – cửa sông Bùng đổ ra biển (là ranh giới địa lý giữa xã Diễn Kim và Diễn Bích ngày nay) cũng đã từng diễn ra nhiều trận đánh quan trọng giữa quân Đại Việt và quân Chiêm Thành ở phương Nam và kẻ thù phương Bắc. Huyền thoại ở Làng Hoa Lũy kể thần đã phù hộ cho quân của tướng Đinh Lễ trong trận thủy chiến quan trọng tại lạch Vạn năm 1425, góp phần quan trọng để quân Lê Lợi hạ thành Hoan châu, tạo tiền đề đi đến chiến thắng quân Minh 2 năm sau đó.
Nhà văn Sơn Tùng cho biết, sau khi những ngôi đền ở quê bị phá hủy, một người cháu họ ở quê (con một gia đình trước đây đã trông coi đền Trang ở Diễn Kim) đã gửi ra cho ông giữ 18 đạo sắc phong cho thần làng Hoa Lũy. Và chính nhà văn Sơn Tùng đã nhờ một người bạn là chuyên gia về Hán Nôm dịch toàn bộ 18 sắc phong đó từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ. Mong muốn của nhà văn Sơn Tùng là sau này có điều kiện sẽ khôi phục lại đền và phục hồi lại lễ hội Làng Hoa Lũy, đón 18 sắc phong về quê.
Đầu năm 2010 nhà văn Sơn Tùng kêu gọi nhân dân Diễn Kim khôi phục lại đền Làng. Tháng 6 năm 2010 ông về quê và có tổ chức buổi nói chuyện về lịch sử quê hương Diễn Kim. Sau đó, khi trở lại Hà Nội một thời gian, không may ông bị tai biến và phải nằm viện một thời gian dài. Vì vậy, tôi đã tiếp tục tìm hiểu lịch sử các ngôi đền ở Làng Hoa Lũy trên cơ sở tư liệu nhà văn Sơn Tùng để lại và tiến hành khảo sát thêm, bổ sung các nguồn tư liệu mới.
Đầu năm 2010 nhà văn Sơn Tùng kêu gọi nhân dân Diễn Kim khôi phục lại đền Làng. Tháng 6 năm 2010 ông về quê và có tổ chức buổi nói chuyện về lịch sử quê hương Diễn Kim. Sau đó, khi trở lại Hà Nội một thời gian, không may ông bị tai biến và phải nằm viện một thời gian dài. Vì vậy, tôi đã tiếp tục tìm hiểu lịch sử các ngôi đền ở Làng Hoa Lũy trên cơ sở tư liệu nhà văn Sơn Tùng để lại và tiến hành khảo sát thêm, bổ sung các nguồn tư liệu mới.
Từ bản dịch sắc phong mà nhà văn Sơn Tùng đã cho dịch trước đây, tôi đã nhờ nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao ở Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, một chuyên gia trong lĩnh vực này rà soát và biên tập thành một bản dịch hoàn chỉnh hơn. Qua đó chúng tôi tiến hành phân loại, thì thấy trong 18 đạo sắc trải dài trong 157 năm, đạo sắc cổ nhất là đời Lê Cảnh Hưng năm 28 (tức 1767), đạo sắc gần nhất là đời Nguyễn Khải Định năm thứ 9 (tức 1924), trong đó sắc phong cho 3 vị thần.
1. Bản thổ linh quan
2. Đại Vương Đô Thái úy Thành quốc công
3. Đông Hải Thái thú đại ngư ông.
2. Đại Vương Đô Thái úy Thành quốc công
3. Đông Hải Thái thú đại ngư ông.
Đông Hải Thái thú đại ngư ông được xác định là cá lớn (đại ngư), tức cá voi. Tục thờ cá voi cũng là một hiện tượng phổ biến của các ngư dân vùng ven biển.
Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ thêm về lai lịch 2 vị thần còn lại.
Chúng tôi đã tiến hành tìm trong các tài liệu cổ, trong thư tịch còn lại của viện Hán Nôm, với hy vọng tìm ra thần tích của vị thần Bản thổ linh quan, nhưng không tìm thấy tài liệu nào có thể làm rõ thêm những điều được ghi trong các sắc phong. Mà nội dung ghi trong sắc phong thì vô cùng vắn tắt, ngắn gọn. Ví dụ đạo sắc Cảnh Hưng năm thứ 28 ghi:“Sắc cho bản thổ linh quan, cai quản vùng đông bắc, là vị đại thần thông minh mưu lược, quyết giữ vận mệnh nước nhà, che chở cho dân, công nhiều đức lớn, sáng suốt mạnh mẽ, đôn hậu hiền hoà, rộng lòng yêu người, mưu cao tài giỏi, trung thành, chính trực, đem lại vui sướng cho dân. Linh thiêng bậc nhất, có công lớn giúp Vua, ngăn tai cản nạn, giữ yên bờ cõi.”
Trước đây, nhà văn Sơn Tùng, bằng nguồn tư liệu riêng của dòng họ và truyền khẩu dân gian, kết hợp với những cứ liệu lịch sử do ông thu lượm được, trong một bài viết về quê hương, ông đã viết như sau: “Đền Cả ở thôn Thượng gọi nôm là thôn trên, nơi xuất xứ Kẻ Lũy. Đền Cả thờ thần thời Lý Nam Đế (Lý Bôn) quốc hiệu Vạn Xuân. Vùng biển Hàm Hoan (Diễn Châu), nơi diễn ra nhiều trận ác chiến (trong đó có Trang Hoa) giữa quân Lâm Ấp với quân ta, do Phục Man tướng quân Phạm Tu và Tả Tướng quân Triệu Quang Phục chỉ huy. Dẹp xong giặc Lâm Ấp, về sau dân ở Đức Thịnh, nay là xã Diễn Hải dựng đền thờ Triệu Quang Phục. Bên làng Hoa có đền Cả. Trước hai đền là cánh đồng màu rộng lớn, gọi là Đồng Ngô. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, hàng năm đến ngày rằm tháng Ba (âm lịch), họ Bùi cúng giỗ tổ ở nhà thờ họ, đồng thời bày biện lễ vật tế tổ tại cánh Đồng Ngô. Ông tổ Mạnh Bá Đại tướng quân Bùi Văn Thôn tử trận tại đây.”
Như vậy, nhà văn Sơn Tùng đã cho chúng ta biết, vị thần Bản thổ Linh quan thờ tại đền Cả của xã Diễn Kim chính là Phạm Tu tướng quân (có tài liệu nói Pham Tu chính là Lý Phục Man), một vị đại thần của thời Tiền Lý.
Việc của chúng tôi là tập trung tìm hiểu vị thần được phong là Đại vương đô thái úy Thành quốc công thờ tại đền TRANG - trung tâm của xã Diễn Kim ngày nay.
Tôi và anh Chu Xuân Giao đã khảo sát trong các tài liệu cổ, xác minh nhân vật trong sắc phong chính là ĐÀO VĂN LÔI. Nhưng trong các tài liệu bằng chữ quốc ngữ hiện thời có ghi khá lộn xộn. Có một số ý kiến cho rằng ĐÀO VĂN LÔI là con của Đào Cam Mộc (người được phong Tín Nghĩa hầu dười thời Lý Thái Tổ, sau khi mất được phong Thái Sư, Á Vương, là một trong những nhân vật quan trọng nhất đưa Lý Công Uẩn lên ngôi).
Tình cờ, tôi đã đọc được ý kiến tranh luận của ông Lương Thế Phiệt (đăng trên Website Hội nhà văn Việt Nam – VanVN.Net phiên bản cũ), ông Phiệt người ở làng Vân Tra (thuộc Xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng). Ông Lương Thế Phiệt cho biết, vị ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI hiện được thờ tại ĐỀN VÂN TRA, là một trong những ngôi đền cổ nhất của Hải Phòng (gần 1000 năm), đền đã được công nhận là di tích quốc gia năm 1994. Đào Văn Lôi có quê mẹ ở làng Vân Tra, quê nội ở Nghệ An, cha của Đào Văn Lôi là Đào Mộc chứ không phải là Đào Cam Mộc như một số tài liệu nói.
Nhận được thông tin này tôi đã liên hệ với ông Lương Thế Phiệt và ông Phiệt hết sức vui mừng viết thư cho tôi nói rằng, từ bao nhiêu năm nay, người làng Vân Tra vẫn chờ đợi một ngày nào đó, sẽ có một người từ quê nội của Thần liên hệ với bên ngoại, nhưng mãi bây giờ mới thấy. Ông Phiệt cũng cho biết, thần tích đền Vân Tra đã được ông Ngô Đăng Lợi, một trong những nhà nghiên cứu lịch sử địa phương của Hải Phòng sơ dịch. Bản chính của thần tích còn được lưu giữ trong viện Hán Nôm.
Tôi đã liên hệ với chị Đỗ Bích Tuyển, hiện là nghiên cứu sinh, công tác lâu năm tại Viện Hán Nôm Việt Nam. Chị Tuyển đã tìm được và dịch bản thần tích này ra chữ quốc ngữ.
Bản thần tích này do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573), và Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, Nguyễn Hiền sao chép lại ngày mồng 7 tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Bản thần tích này do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573), và Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, Nguyễn Hiền sao chép lại ngày mồng 7 tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Nội dung bản thần tích cho biết nhiều nội dung quan trọng như sau:
Về lai lịch: Thần tích kể, cha của Đào Văn Lôi người gốc Hoan châu, có tên là Mộc, trước có họ Nguyễn, sau đổi thành họ Đào… Mộ của mẹ ông Đào Mộc nằm trên núi Tung Sơn phía bắc dãy Tản Lĩnh (chúng tôi xác định nơi này có thể thuộc về xã Trung Sơn, huyện Đô Lương ngày nay). Mẹ Đào Văn Lôi là Đỗ Thị Uyển, người làng Vân Tra, thuộc Hải Phòng ngày nay. Sở dĩ có mối lương duyên giữa ông Đào Mộc và bà Đỗ Thị Uyển là vì ông Đào Mộc thời thanh niên rời quê ra Tràng An theo học. Nhờ một người bạn đưa về Vân Tra mà nảy nở mối lương duyên. Sau khi ông Mộc và bà Uyển cưới nhau thì họ trở lại Tràng An sinh sống. Đào Văn Lôi được sinh ra năm Đinh Hợi (987) ở Tràng An, và ở đó đến năm 13 tuổi thì cha mất, theo mẹ về Vân Tra sinh sống.
Đào Văn Lôi lúc nhỏ học hành thông tuệ. 24 tuổi đỗ đầu ở kinh đô, được cho vào làm ở Hàn Lâm Viện, rồi phong làm Phủ Úy Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Vì có tài lại nổi tiếng thanh liêm, yêu dân như con, sau được gọi về kinh phong làm Đô Đài, rồi Bình Chương sự, Nội Thị. Có công trong dẹp loạn tam vương nên được phong làm Tả phúc tâm. Từ đó về sau lần lượt được phong làm Trung thư thị lang, Tả tham tri chính sự, rồi Thái Úy Thành Quốc công.
Cuối đời Đào Văn Lôi về thăm quê và qua đời ở núi Kim Nhan (nay là huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An), vua Lý Thánh Tông đã lệnh cho nhân dân lập đền thờ.
Điều lưu ý là trong bản thần tích có đề cập đến một số nội dung mà trong Đại Việt sử ký toàn thư không ghi, hoặc ghi rất chung chung. Ở đây, tôi xin nêu ra một số điểm.
1. Đại Việt sử ký toàn thư ghi trận đánh giặc Man (tức Mán Hạc Thác) (1014) vua cử Dực Thánh Vương cùng các tướng đi đánh; trong thần tích ghi rõ Đào Văn Lôi cùng với Dực Thánh Vương đã đánh tan 20 vạn quân Man ở trại Ngũ Hoa.
2. Đại Việt sử ký toàn thư ghi, trong loạn tam vương, khi Lê Phụng Hiểu từ cửa Quảng Phúc xông đến chỗ Vũ Đức Vương, vương đem ngựa tránh, ngựa khuỵu xuống, Phụng Hiểu bắt đươc và giết Vũ Đức Vương. Trong thần tích lại ghi, nội thị Đào Văn Lôi cũng có mặt lúc đó, chính Đào Văn Lôi chém ngựa Vũ Đức Vương khuỵu xuống nên Lê Phụng Hiểu mới bắt và giết được Vũ Đức Vương nhanh chóng.
3. Trận đánh Chiêm Thành năm (Giáp Thân) Đại Việt sử ký toàn thư ghi Quách Gia Di chém đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu. Trong thần tích ghi Đào Văn Lôi cùng với Quách Gia Di chém đầu Sạ Đẩu và chính nhờ thành tích này ông được phong Thái Úy Thành quốc công.
….
Trong thần tích có những chỗ thần thánh hóa nhân vật. Nghĩa là có nhiều điểm dựa trên sự hư cấu của người viết, nhưng cũng có nhiều yếu tố hiện thực gần với chính sử.
Có một điều chúng tôi muốn nói ở đây: Đại Việt sử ký toàn thư bản nội các quan bản hoàn chỉnh và in lần đầu năm 1697, được soạn bởi nhiều đời sử quan thời hậu Lê, dựa trên những tài liệu trước đó (sớm nhất là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu thời Trần) trước Lê Văn Hưu, hầu như lịch sử chỉ tồn tại ở dạng truyền thuyết đã có nhiều biến tấu theo tâm thức dân gian. Đại Việt sử ký toàn thư cũng chứa đầy màu sắc huyền thoại và nhiều phần trong số đó không thể kiểm chứng. Trong khi bản thần tích về Đào Văn Lôi chúng tôi có trong tay là do Nguyễn Bính soạn bản chính vào niên đại Hồng Phúc (1572-1573) và được Nguyễn Hiền chép lại năm 1736. Như vậy, hai văn bản này, về cơ bản được biên soạn vào những thời điểm lịch sử không xa nhau. Câu hỏi đặt ra là, tại sao trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi về Đào Văn Lôi không đậm nét như tầm vóc được truyền tụng của ông? Đó hẳn còn là một bí ẩn của lịch sử. Theo chúng tôi, có thể, thời kỳ đầu nhà Lý, những tư liệu còn lại không nhiều, gây khó khăn cho các sử gia. Đến cả Vạn Hạnh, Đào Cam Mộc mà lịch sử cũng chỉ dành có mấy dòng, vậy Đào Văn Lôi không được nhắc đến nhiều cũng là điều dễ hiểu. Nhưng cũng có thể, có những lý do riêng trong lịch sử mà chúng ta chưa hiểu hết, đã khiến nhân vật này ít được đề cập trong chính sử.
Thời kỳ nhà Lý, vùng Hoan châu vẫn bị coi là Trại, lại thường nổi lên chống đối triều đình. Những người ở vùng này cho đến những thế kỷ sau vẫn ít có người đỗ đạt được triều đình trọng dụng. Trong lịch sử xứ Nghệ, Mai Hắc Đế là ông vua sớm nhất nổi lên chống giặc Phương Bắc, còn ĐÀO VĂN LÔI có thể là người đầu tiên đỗ đạt và làm quan đến hàng Thái Úy, rồi lại được xếp vào hàng Thái Bảo. Đó, hẳn nhiên là một niềm tự hào của người xứ Nghệ, nhưng hàng chục năm nay, người xứ Nghệ đã quên lãng.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười xem sắc phong đền làng Hoa Lũy
Sau khi có trong tay bản thần tích, chúng tôi tiến hành khảo sát trên thực tế. Đoàn gồm ông Nguyễn Trọng Thể (Trưởng ban Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội), anh Chu Xuân Giao và tôi đã vào tận Kim Nhan, thuộc huyện Anh Sơn, rồi đến xã Trung Sơn thuộc huyện Đô Lương (nơi mà chúng tôi xác định là có núi Tung Sơn), những nơi này đền thờ cũ đã bị phá hết. Khi đoàn đại diện Ban liên lạc đồng hương Diễn Kim do ông Nguyễn Trọng Thể dẫn đầu, cùng anh Lê Trí Trịnh, Chu Quang Thiện, Bùi Thái Trọng, Chu Xuân Giao và tôi xuống đền Vân Tra dự lễ Khánh hạ ngày 10/8 âm lịch năm 2010, nhân dân Làng Vân Tra đã kéo ra hàng trăm người ôm chầm lấy chúng tôi. Người dân nói, đây là cuộc gặp gỡ lịch sử giữa đoàn đại diện quê nội của đức thánh ĐÀO VĂN LÔI với quê ngoại của Ngài. Chúng tôi lại đến xã Nghi Thái (thuộc huyện Nghi Lộc) - một địa danh mà theo cuốn Di sản Hán Nôm Việt Nam chúng tôi xác định là có thờ Đại Vương đô Thái úy thành quốc công Đào Văn Lôi. Ở đây, ngôi đền cũng bị phá, chỉ còn lại một nền đất nhân dân để một bát hương để thắp vào rằm, mồng một hàng tháng.
Chúng tôi cũng đã lập một đoàn vận động xây dựng lại Đền TRANG tại xã Diễn Kim do Ban Liên lạc đồng hương Diễn Kim tại Hà Nội làm nòng cốt, kết hợp với Ủy ban nhân dân xã Diễn Kim. Chúng tôi đã lên trình bày với nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười. Chúng tôi cũng đã làm việc với đồng chí Trần Chiến Thắng - Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, và vào làm việc với đồng chí Phan Đình Trạc, lúc đó là Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An. Ở tất cả những nơi đó, chúng tôi đều nhận được sự ủng hộ của các vị lãnh đạo. Đồng chí Phan Đình Trạc đã về tận xã Diễn Kim thăm lại di tích, nơi đã từng thờ ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG. Trong buổi làm việc của đoàn, đồng chí Phan Đình Trạc đã nói với chúng tôi, rằng nên mở một hội thảo về ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI. Đó là việc cần làm sớm. Và trong tương lai, trên đất xứ Nghệ nên có một con đường mang tên ĐÀO VĂN LÔI.
Lãnh đạo tỉnh Nghệ An làm việc với nhà văn Thiên Sơn và nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao về việc khôi phục đền thờ Đào Văn Lôi
Năm 2012, nhân kỷ niệm 1025 năm ngày sinh của ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI, nhân dân Diễn Kim đã chính thức khôi phục lại lễ hội làng Hoa Lũy và làm một Am thờ ngài trên nền cũ ngôi đền khi xưa. Toàn dân nô nức đi dự hội. Lòng vui khôn xiết sau nửa thế kỷ lại được thắp nén hương dâng lên vị thần làng, một vị công thần lập quốc ngàn năm trước, và là một ông tổ hiển vinh của người xứ Nghệ. Trong ngày lễ thiêng liêng đó, nhân dân được đọc lại những sắc phong của các đời vua thời trước phong cho thần. Xin trích đạo sắc năm Cảnh Hưng 44 (1783): “Đại Vương Đô Thái uý, Thành quốc công, gia phong là đấng cầm quyền trung hậu, theo điều nhân nghĩa, nêu cao tiết tháo, mưu lược sâu rộng, mạnh mẽ cương nghị, phù bật quân vương, khang dân, trạch vật, giúp đời, linh ứng. Lòng dạ sắt đá, chí khí sáng trong. Nơi trận tiền liều mạng trung trinh, hiển hách tựa Thiên lôi; tấm thân tiết nghĩa lưu tiếng thơm mãi về sau. Sáng chói như mặt trời, tinh tú, thật đáng ngợi khen, vinh dự đã nêu cao…”
Trên những tư liệu hiện có, mùa thu năm 2012, tôi đã viết cuốn sách mang tên Hoa Ưu Đàm lại nở, đó là một cuốn truyện lịch sử về cuộc đời và thời đại của Thái úy Thành quốc công Đào Văn Lôi, thể hiện dưới dạng một truyền thuyết hiện đại xen giữa hư cấu và lịch sử, giữa hiện thực và huyền thoại.
Từ cảm thức, chúng tôi cho rằng, sở dĩ phải lập lại đền thờ Đại Vương Đô Thái úy thành quốc công Đào Văn Lôi là vì: Trên quê hương xứ Nghệ, một mảnh đất anh hùng và văn hiến, nên có ít nhất một nơi thờ tự một vị anh hùng, một bậc đại trí thức, một bậc đại công thần thời hậu Lý mà từ lâu nhân dân đã phong Thánh. Mong rằng, mọi người dân xứ Nghệ, dù ở nơi đâu, hãy góp một tấm lòng, để sớm khôi phục lại được ngôi đền khang trang thờ ĐẠI VƯƠNG ĐÔ THÁI ÚY THÀNH QUỐC CÔNG ĐÀO VĂN LÔI. Con người vĩ đại được phong thánh từ gần 1.000 năm trước ấy, mãi mãi là niềm tự hào và niềm tôn kính của chúng ta.
Theo: donghodao.vn
Theo: donghodao.vn
Thứ Năm, 11 tháng 8, 2016
Đôi nét về Làng Vân Tra
Làng Vân Tra thuộc xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Có cụm di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật đình chùa được nhà nước công nhận là di tích cấp Quốc gia từ năm 1994. Hàng năm làng có hai kì lễ hội chính là hội thượng nguyên chùa "Nhuệ Quang" rằm tháng giêng. Hội đình từ 11 - 12- 13- 14 tháng hai âm lịch. Hội rằm tháng giêng có tổ chức thi đầu vật truyền thống.
Câu lạc bộ cầu lông làng Vân Tra
Câu lạc bộ cầu lông làng Vân Tra được thành lập dựa trên mong muốn rèn luyện sức khỏe của người dân trong làng và một số anh chị em bạn bè từ các địa phương khác có mong muốn tham gia. Câu lạc bộ hoạt động với cơ cấu tổ chức gồm 1 chủ nhiệm và 2 phó chủ nhiệm kỹ thuật, tài chính do Làng Văn hóa Vân Tra quản lý.
Khi thành lập câu lạc bộ có 17 cá nhân tham gia đăng ký và sinh hoạt, thời gian sinh hoạt vào các buổi chiều từ 17h đến 20h. Qua một thời gian hoạt động CLB dần chuyên nghiệp về trình độ chuyên môn của từng thành viên và tăng dần về số lượng thành viên, điều đó thể hiện mong muốn rèn luyện sức khỏe của mọi người là rất rõ ràng.
Ngoài sinh hoạt nội bộ, CLB cũng thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu cùng các CLB trên các địa bàn lân cận như CLB cầu lông Vĩnh Khê, CLB cầu lông Trang Quan giúp các thành viên học hỏi được nhiều kinh nghiệm thi đấu.
CLB cầu lông Vân Tra chụp ảnh cùng các CLB khác
Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016
Thần tích Đức thái úy thành quốc công Đào Lôi
Xưa kia, nước Việt ta là quận Giao Chỉ. Nhờ Hoàng thiên yêu mến, mà mệnh cho họ Hùng mở rộng cơ đồ, truyền mười tám đời đế vương với hơn hai nghìn năm thịnh trị. Thục Vương kế nối, chuyển dời đến nhà Triệu nước Nam Việt, trải qua sự hưng thịnh của 2 họ Lý, tương đương với Lục triều của phương Bắc. Nam Bắc chia cắt kéo dài rồi lại hợp lại. Hai triều Đinh Lê dẹp loạn, thống nhất sơn hà. Trăm họ nhờ thế mà được thái hòa; sông biển vì thế mà được yên ổn. Thật tốt đẹp thay! Vào đời vua Lý Thái Tổ, có người họ Đào, tên Lôi, tên tự là Đề Húc, trước mang họ Nguyễn, sau đổi họ Đào. Trước kia là người ở Hoan Châu, cha tên là Mộc, chuyên tâm theo nghiệp học, tính khoan hòa nhân hậu khi đối đãi với mọi người. Thuở nhỏ, ông (ông Đào Mộc) du học ở Trường An, trú ngụ cạnh chùa Thích Ca. Một hôm, khi đi qua chợ Đông Tân, ông bỗng nhặt được 1 chiếc túi, bèn mang về nhà, mở ra xem thì thấy bên trong có 5 dật vàng. Hôm sau, ông quay lại chỗ đó ngồi đợi. Hồi lâu, bỗng thấy một người khách Bắc quốc hớt hải đi tới kêu cứu sự việc. Ông thăm dò biết là vị khách mất vàng thật, liền hỏi rõ ngọn nguồn, vị khách đối đáp đúng như vậy (nghĩa là trả lời đúng số tiền vàng mất là bao nhiêu). Ông rủ lòng thương cảm, bèn dẫn ông khách đến chỗ bắt được vàng, trả lại toàn bộ số vàng cho người khách. Người khách theo ông về chỗ ở, hậu tạ ông một nửa số vàng. Ông cố từ chối không nhận. Người khách lại cố cảm tạ bằng 1 dật vàng, ông cũng không chịu nhận, và nói rằng: “Nhà tôi ba bốn đời nay vốn tu nhân tích đức, phàm những tài sản không phải mồ hôi nước mắt mình làm ra thì chỉ chi nhỏ nhoi cũng không phạm vào”. Người khách cảm động tấm chân tình, sợ làm phật ý ông nên vái tạ mà nhận lại số vàng trở về. Được vài tháng, người khách lại đến, chọn tìm chỗ đất tốt để báo đáp ơn sâu. Ông liền dẫn người khách Bắc quốc trở về bản ấp, tìm được một huyện đất tại đỉnh núi Tung Sơn, hình thế như con rắn vàng ấp trứng, mạch đất non Tản Lĩnh chạy về. Người khách nói rằng: “Mạch khí thịnh vượng, đúng là thế đất quý, sau sẽ có nhiều chung linh tú khí mà sinh được quý tử, chỉ vài năm sau sẽ trở nên giàu có”. Ông mừng lắm, bèn đem hài cốt của mẹ an táng tại chỗ huyệt đó. Táng xong, người khách khẩn khoản mời ông cùng đến chỗ người khách trú ngụ. Người khách vốn là người ở Vũ Xương, họ Hoàng, tên là Phục, vốn người chính tông Bắc quốc. Nhưng do chốn việc binh dịch nên đến ở nước ta, trú ngụ tại phường Vân Tra huyện An Dương phủ Kinh Môn đạo Hải Dương. Cuối cùng, ông cũng theo người khách trở về Vân Tra yến ẩm, tiệc khách khoản đãi thật nồng hậu. Khi đó, ở Vân Tra có một người họ Đỗ, tên là Hưởng (xét phường đó nguyên trước kia là bờ biển, bốn bên nước nổi, có ba họ Đỗ, Nguyễn, Lê cùng cư trú, tập hợp lại thành một phường). Gia đình ông Đỗ đời đời giàu có, sinh được một cô con gái tên là Thị Uyển, tính nết hiền dịu, tài đức song toàn, học vấn thông hiểu cả. Khi đó, ông thấy nàng đã mừng thầm, liền xin với ông họ Đỗ cho được sánh đôi loan phượng, Đỗ công ưng thuận. Ông sắm lễ vật đầy đủ, rồi từ đó nên duyên Tần Tấn. Vợ chồng ông đưa nhau trở về Trường An kiếm ống để tiện cho việc học. Một hôm, nhân lúc nhàn rồi, ông ngồi một mình trước hiên nhà, có vẻ như ưu tư đáng thương. Thấy tiếng phu nhân không biết từ đâu nói với ông rằng: “Cơ sự trong nhà trôi đi không ngừng, đương lúc cơ trời chẳng biết ra sao, làm sao xét được điều gì như ý, phu quân có việc gì lo lắng đến buồn phiền như vậy?” Ông than rằng: “Cổ nhân nói rằng: Tội bất hiếu có ba, thì tội không có con là nặng nhất1. Tôi nay tuổi đã đến tứ tuần mà điềm lành hùng hùy2 chưa thấy trong giấc mộng. Vả lại người ta sống ở trên đời ngày qua tháng lại, nhanh chóng vụt qua, nên than trách vậy”. Bà phu nhân khuyên giải rằng: “Chàng cứ nghĩ ngợi như vậy sẽ tổn hại đến chí bình sinh. Chẳng bằng hãy dốc lòng làm việc tích đức tu nhân thì phúc lộc sẽ tự sinh ra vậy. Nay ta hãy nên đi khắp các nơi danh lam thắng tích, kêu xin thần minh, may ra được vận may phi yến, cơ hồ thỏa nguyện được chí bình sinh”. Ông tán thành rằng: “Phụ nữ như nàng còn nghĩ được như vậy, huống chi là ta”.
Từ đó, ngày đêm tụng niệm chân kinh, đốt hương đọc tụng thần chú. Mỗi khi tuần rằm đều đến chùa Thích Ca ngầm cầu phúc khánh, không chút trễ nải. Lại trồng cây Ưu đàm trước cửa chùa, chăm lo vun trồng tươi tốt. Khi đó, khí xuân ấm áp, gặp tiết thanh minh, ông cùng phu nhân trở về thăm cha và vái phần mộ mẹ. Vừa đến núi Tung Sơn, ông chỉ cho phu nhân biết rằng: “Mộ này chính là mộ của mẹ ta. Ngày trước có người khách báo đáp ta. Xem ra cũng an ủi lòng ta được rồi”. Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên trời đất tối đen, mưa to gió lớn nổi lên. Bỗng nghe một tiếng sấm sét vang trời như xuyên thẳng vào tai, ánh hào quang đỏ chói như chiếc roi từ trên trời bay xuống, phu nhân bang hoàng ngã lăn ra đất. Trong chốc lát từ từ tỉnh dậy, người chồng đỡ bà lên, bỗng nhìn thấy trước ngực phụ nhân nổi lên đầy nốt mụn như những hạt trân châu. Nhìn kỹ thì thấy tự dạng 8 chữ lớn là Đào gia phúc lý, thiên giáng Lôi thần (nghĩa là: Nhà họ Đào có phúc, trời ban cho Lôi thần). Ông đưa bà về nhà, tám chữ đó như khói bay đi mất. Từ đó, phu nhân có thai. Mang thai được 14 tháng thì sinh ra một người con trai (khi đó là ngày 13 tháng 2 năm Đinh Hợi). Trong khi bà sinh, ông ngồi tựa bàn, bất giác mơ màng ngủ thiếp đi như lạc trong giấc mộng. Bỗng thấy một người dung mạo dị thường tiến thắng tới chỗ ông đang nằm, trần tình hàn huyên rằng: “Thần vốn là chúa tể ở Lôi ty, trước đây đã giáng sinh vào làm Danh tướng nhà họ Đường, vì thế được xứng hàng tướng lệnh. Nhưng trần hoàn chưa hết, lại định cho đến kỳ xem tôn nhân nào có đại phúc, nguyện được đầu thai vào làm con để báo đáp ơn dưỡng dục”. Khi đó bỗng nghe thấy tiếng trống đồng vang lên trong phòng. Nhớ lại việc trong mơ, lại nhìn thấy cây Ưu đàm nở đầy hoa tươi sắc thắm, trong đó có một bông hoa như mặt trời đỏ mới mọc, qua ba tháng mới rụng. Quả nhiên ông sinh được một cậu con trai. Lúc đó gió mưa mịt mùng, trời đất tối đen, sấm sét vang động, hào quang lóe lên quanh nhà, khí lành tràn ngập khắp phòng. Tiếng cậu con trai khóc vang như tiếng chuông vàng, đỉnh đầu như mỏ phượng, mắt sáng như gương soi, trước bụng có hàng lông dài, tướng mạo khắc hẳn người thường. Người cha mừng lắm, trầm tư suy nghĩ đến những điều trùng hợp trong giấc mộng, rồi đặt tên con là Lôi, tên chữ là Đề Húc. Từ đó, không cần nuôi nấng bú mớm nhiều mà tự lớn. Năm lên 8 tuổi, ông cho nhập học. Bản thân biết trước nên nghe một biết mười, vượt hẳn người thường. Những bậc thức giả thường kinh ngạc tán thán rằng: Đúng là người có sức học xung phá mây khói, có tài kinh bang tế thế. Năm 13 tuổi, cha mất, ông theo mẹ là Đỗ thị đến sống ở đất Vân Tra. Ông dốc lòng hiếu kính, thường hay làm việc nhân đức, hiếu nghĩa, cứu giúp mọi người. Chẳng những ở phường Vân Tra có chỗ cậy nhờ, mà hương đảng xung quanh bốn bên cũng được giúp đỡ. Đến khi trường thành, thì thông minh mẫn tiệp, hùng tài đại lược có thể vật hổ đuổi trâu. Lại có phép thuật diệu kỳ hô phong hoán vũ, tứ nghệ đều thông, tam tài đều giỏi. Một hôm, nhân buổi nhàn du ngoạn cảnh, ông thấy trước ấp có một thế đất như hình cóc ngồi trông trăng, núi thiêng gặp mạch tốt, nước mênh mang từng đàn cá đùa chơi, hai con rắn [tr.9] uốn lượn ôm vào, bầy gà nhảy múa, từng con trầu về, thực là thế đất quý. Ông bèn dựng một cái am cỏ ngay trên thế đất thiềm thừ (hình con cóc), tọa Dậu hướng Mão (nằm hướng tây nhìn về hướng Đông), bốc quẻ rồi ở tại đó. Một hôm, bà mẹ Đỗ thị nói rằng: “Từ ngày cha con mất đến nay, đếm ngón tay mới được mấy năm vậy. Mẹ ta hướng mộ đạo Thiền môn, mong nhờ vào phúc sau này. Vả lại ở chùa Thích Ca, năm trước cha con dốc lòng trang hoàng chùa chiền, phong cảnh sáng sủa đẹp mắt. Nay ta xuất gia quy y, trụ trì chùa đó. Con ở nhà phải chuyên cần việc học, sớm đạt công danh, ta mới có thể yên lòng được, cơ hồ thỏa công sinh thành. Có như vậy, không những làm rạng rỡ tông môn, mà cha ở nơi tuyền đài cũng được thỏa lòng ước vọng”. Nói rồi, bà mang theo tư trang, đến chùa Thích Ca quy y. Đến năm ông 24 tuổi, đội ơn nhà vua, được chọn đứng đầu, may mắn sung vào làm Hàn lâm viện Học sĩ, từng được thăng chức Phủ úy ở Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Làm việc chính sự thì thanh liêm chuyên cần, ở nơi lỵ sở thì bình thường giản dị, vì thế được dân hết lòng yêu mến, tiếng tăm vang đến đế đình. Được vua Thái Tổ xuống chiếu mời về kinh phong làm Đô đài. Năm Quý Sửu, năm thứ 4 đời vua Thái Tổ (1013), tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí dẫn theo 20 vạn quân xâm nhập vào biên cương. Chúng lập đồn ở bến Kim Hoa, bố trí sắp đặt doanh trại quân đội, lấy tên là trại Ngũ Hoa. Hoàng Vinh đem việc đó tâu lên đế đình. Vua phong ông làm Tiềm Kim Ngô tướng quân, cùng với Dực Thánh Vương dẫn quân cùng tiến đánh quân giặc. Ông vái tạ nhà vua rồi nhận mệnh đi. Khi đó, ông dẫn quân trở về Vân Tra, giết mổ trâu bò làm lễ khoản đãi nhân dân. Lại chiêu mộ trong dân được 30 dân đinh cường tráng làm thủ túc, thẳng tiến tới biên giới, giao chiến cùng giặc Man. Đánh 5 trận liên tiếp, tướng Man trông thấy kinh hoàng vội theo gió chạy mất. Ông chém đầu được hàng vạn, bắt sống sĩ tốt nhiều không đếm xuể. Thế rồi, dẫn quân chiến thắng trở về. Nhà vua úy lạo tướng sĩ, tán thán rằng: “Chẳng phí nhiều sức mà dẹp được quân Man, đúng là nhờ sức lớn của Văn Lôi vậy”. Bèn ban thưởng lớn, phong ông làm Bình Chương sự. Từ đó, nhà vua càng yêu mến, luôn giữ bên mình.
Ngày Mậu Tuất, đế băng hà ở điện Long An, khi đó các đình thần vâng theo di chiếu đến cung Long Đức kính rước Thái tử Phật Mã lên ngôi. Ba vương là Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức nghe tin, liền dẫn theo quân của phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành; Thái tử từ cửa Tường Phủ vào đến điện Càn Nguyên biết có biến loạn, bèn ra lệnh cho Thị nội Lôi công, Lý Nhân Nghĩa, rồi các cung thần là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu mở cửa thành ra đánh. Ai cũng vui lòng xông pha dẹp loạn, đều là một người không phải địch với một người mà địch với trăm người. Quan quân đánh nhau liên tiếp nhiều trận mà chưa phân thắng bại. Lê Phụng Hiểu tức giận rút kiếm thẳng đến cửa Quảng Phúc hô lớn, xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương. Vương dẫn ngựa tránh. Khi đó, Lôi công rút dao xông tới, đánh ngựa quỵ xuống, Vũ Đức Vương bị Phụng Hiểu bắt giết. Thái từ khen ngợi rằng: “Tài hùng lược của Văn Lôi, lòng trung dũng của Phụng Hiểu còn hơn Kính Đức nhiều”. Năm Kỷ Tỵ, Thái tử lên ngôi (sử ghi là năm Kỷ Hợi), đặt hiệu là Lý Thái Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thành. Tháng 11, mùa đông, gia tặng cho các công thần có công theo thứ bậc, phong Lôi công làm Tả phúc tâm. Đến năm Canh Ngọ, hai châu Hoan Châu và Ái Châu đều làm phản, vua Lú Thái Tông ra lệnh cho ông đem quân đi đánh dẹp. Ông tiến đến biên cương, cho thu dụng các anh hùng hào kiệt, phủ dụ dân địa phương, vì thế mọi người ở hai châu tất cả đều đầu hàng. Thế rồi, ông dẫn quân trở về, được nhà vua khen ngợi hết lời. Một hôm, đúng dịp tiết xuân hòa khí, ông dâng biểu tấu xin trở về quê thăm thân mẫu. Nhà vua đồng ý, bèn cho xa giá, binh sĩ trở về chốn chùa Thích Ca, yết kiến mẹ hiền. Khi đó, ông mở to mắt nhìn cây Ưu Đàm, lại thấy nở ra một nhành hoa, liền nói với các quan sĩ rằng: “Cây này mà nở hoa, đích thị là điểm lành. Năm trước, chỗ cha mẹ ta cây cũng nở đầy hoa, nên đã sinh ra anh em chúng ta (em ruột tên là Điện, tên tự là Hỏa Quang, được phong là Tích Lịch đại vương. Sự tích được ghi chép ở bản khác). Nay cây này lại nở hoa, cũng là điểm lành vậy”. Ngay ngày hôm đó, liền cho cấp phát của cải để trùng tu chùa chiền. Công việc xong xuôi, đến một hôm thì người mẹ không may qua đời. Ông cho xây dựng một ngôi tháp ở phía tây chùa, nghênh rước thân mẫu an táng ở đó. Lại cho tạc vẽ tượng pháp, lệnh cho nhân dân sở tại phụng thờ. Thời gian thấm thoát qua đi, kỳ báo hiếu đã mãn, nhà vua cho triệu ông về triều giúp việc chính sự, thăng cho ông làm Trung thư thị lang, lại thăng làm Tả tham tri chính sự. Đến năm Quý Mùi, chúa Chiêm là Sạ Đẩu mang theo quân mạnh hàng trăm vạn, chiến hạm đến 3 nghìn xâm lược nước ta, chúng thường ở các cửa biển Đại Ác, Bố Hải, Trụ Nha, Tư Dung. Biên cương có thư cáo cấp một ngày đến 5 lần. Nhà vua lo lắm, liền cho triệu các đình thần bách quan văn võ đến hội nghị bàn kế sách đánh dẹp. Nhà vua đích thân mang binh mã đi đánh Chiêm, phong Lôi công làm Thần Vũ đại tướng quân dẫn 5 nghìn tinh binh, 3 trăm thuyền chiến dẫn quân tiên phong. Nhà vua đóng ở Trung quân, các tường ở Hậu quân. Âm thanh vang động, cờ quạt rợp đất, giáo mác liền trời, tiếng pháo nổ liên thanh như sấm sét kinh thiên động địa.
Quân nhà vua đi đến một nơi, sức lực đã mệt mỏi. Năm Kỷ Tỵ nhà vua liền cho dừng quân, đóng đồn ở Đại Ác, gặp gió yên biển lặng, đại quân chiến thắng. Nhân đó, mới đổi tên Đại Ác thành Đại An. Đến khi qua sông có vũng xoáy, nhà vua ra lệnh cho Lôi công hộ giá thuyền rồng. Khi đó thường thấy xuất hiện một đám mây tía che phía trên chỗ vua ngồi. Nhà vua cho rằng đó là do khí chất của Văn Lôi Thiên tướng, vì thế không ngớt cảm tạ trời đất anh linh, đi chinh chiến tất sẽ thắng lớn. Từ đó, nhà vua luôn giữ Lôi công bên mình. Một hôm, đi qua hai nơi Đại Tiểu Trường Sa, đến cửa biển Tư Dung, tự nhiên có con cá trắng nhảy vào thuyền. Nhà vua nghe tin quân Chiêm Thành dẫn theo nhiều quân và voi xông trận ở bờ Nam sông Ngũ Bồ, liền muốn dàn quan quân, xuống chiếu cho bỏ thuyền trèo lên đường bộ, Quân sĩ nhận mệnh, tất cả tiến lên bờ Bắc, thấy bọn giặc (bên kia) đã la liệt bên sông, nhà vua liền dàn quân sĩ cắm cờ, nổi trống vượt sông đến đánh. Lôi công vung đao mở bày thế trận, đánh 5 trận liền quân Chiêm bỏ chạy tán loạn, đuổi chém được hàng nghìn tên. Ông dồn sức xông lên trước, cùng với Quách Gia Lộng thừa thắng đuổi dài, bốn bên yểm hộ giết được chủ Chiêm là Sạ Đẩu, treo đầu bêu trước trận. Số còn lại bị quan quân giết hết, máu và khí giới trộn đầy, bắt sống được vợ con Sạ Dầu. Nhà vua đưa quân chiến thắng trở về, khen thưởng úy lạo các công thần, gia phong cho tướng sĩ theo thứ bậc, phong Lôi công làm Thái úy Thành quốc cong. Nhân đó, ông mới dâng biểu xin cho quê ngoại Vân Tra làm ấp tháng mộc. Nhà vua ưng thuận chỉ chuẩn cho miễn việc binh dung tô thuế, còn trang Văn vật thì được làm dân hộ nhi. Từ đó dân hai nơi không người nào bị đói rét, người dân thuần hậu, phong tục tốt đẹp, thật đúng là làng phú quý thịnh đạt, tất cả đều nhờ đức của ông vậy. Lại nói, đến năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 2 (1045), có Nùng Trí Cao làm phản nhà vua, chiếm giữu động Vật Ác. Nhà vua lệch cho Quách Thịnh Dật, Thành Quốc công Đào Văn Lôi đi đánh. Đến lúc giao chiên, Lôi công bí mật tung ra [16] kế lạ. Trong chốc lát trời đất tối đen, mưa to gió lớn mịt mù, nghe tiếng sét phát ra từ động núi, thân thể các tù trưởng động ấy bị xé tan, cả động ấy kinh hãi, Trí Cao phải dẫn thân đầu hàng, họ Nùng được dẹp yên. Ông từ khi thân chinh đánh giặc chưa một lần giết sằng bậy, chưa tơ hào chút của cải gì. Nhà vua càng yêu kính, xếp vào hàng Thái bảo Lĩnh quận công. Đến khi vua Thái Tông băng, vâng theo di chiếu lập Thái tử Nhật Tôn lên ngôi, lấy hiệu là Thánh Tông. Vì ông nhiều lần tong chinh đánh giặc, nhiều lần lập công tích lớn lao, nên vào năm Long Chương Thiên Tự (1066-1068), ông lấy cớ tuổi cao, xin trở về quê hương. Vua Thánh Tông thấy ông là người phụng sự trải ba triều vua, có nhiều công lao oanh liệt nên đã ban cho ông được nghỉ. Lại ban cho quân sĩ tùy tong về quê, vẫn cho tham dự việc triều chính. Vua Thái Thông thường hay đến nơi ở của ông (phủ đệ ở phường Vân Tra), phàm có việc nước đều đến hỏi ông. Ông từ khi trí sĩ, đường cúc thênh thang, liền mở trường nhận học trò dạy học. Sĩ tử bốn phương kéo đến học rất đông. Ông khéo dẫn dụ, giảng dạy, nên người thành đạt đến hơn hai trăm người. Người đời xưng tụng là Phu tử chốn vân am.
Khi đó có giặc Tống đến xâm lược, vua Thánh Tông lo lắng không yên, lại ban chiếu cho triệu ông đến bàn việc. Ông phụng mệnh hồi triều, vừa đi qua chùa Thích Ca, thấy cây Ưu Đàm trồng từ năm trước nở đầy hoa, sắc tươi khoe thắm, thì tự nhiên bỗng thấy rụng rơi lả tả. Nghĩ rằng đó là điềm chẳng lành, liền quay lại dặn dò gia thuộc ở Vân Tra rằng: “Nay ta phụng mệnh nhà vua đi chinh chiến. Bình giặc xong chắc sẽ trở về Thiên cung. Các ngươi hãy báo rõ với nhân dân, nếu như có nhớ đến công đức của ta thì hãy hương hỏa thờ cúng ta, nếu thấy ở phía đông bắc có vầng ánh sáng thì đó chính là tinh thần của ta hiện hữu ở đó. Còn ở nơi ta ở, hãy lập điện để phụng thờ”. Dặn dò xong, ông tiến quân đánh nhau với quân Tống. Khi đánh giặc xong, ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu. Vừa đến chân núi, bỗng nhiên thấy gió lốc cuồng phong nổi lên, ông bay lên không trung biến mất, không biết nơi nào. Trong chốc lát trời quang sáng, thấy áo quần của ông vẫn ở chân núi, quân sĩ liền chôn ngay chỗ đó. Quân sĩ trở về tấu trình đầy đủ với vua Thánh Tông. Nhà vua lập tức phong tặng sắc chỉ, ban cho mĩ tự là Lôi Công thượng đẳng thần, truyền lệnh cho lập miếu ngay chỗ ngài hóa để phụng thờ. Khi đó, những người ở Vân Tra theo ông đánh giặc trở về trình báo sự việc. Nhân dân phụ lão tất cả đều cảm tạ ân đức của ông, lập tức tuân theo lời dặn dò của ông cho sửa sang nơi ở, viết thần hiệu Lôi công Thiên thần để phụng thờ. Lại đến trước đế đình tâu trình, vua Lý Thánh Tông ban cấp cho sắc lệnh mang về thờ phụng, rất là linh ứng. Phàm những việc trộm cắp bất minh, hễ đến đền cầu đảo đều hiện rõ tốt xấu. Gặp năm hạn hán, dân sắm lễ đến tế, lập tức thấy ở hướng Đông Bắc có ánh chớp hiện lên, sấm sét nổ vang báo hiệu điềm lành, rồi mưa to chan hòa, thấm nhuần khắp nơi. Nhà vua cho là linh ứng, liền gia phong cho ba mĩ tự là Vân Uy, Linh Cảm, Hiển Ứng. Phụng ban cho một trăm tiền đồng, truyền cho tạc tượng thần, trùng tu điện vũ, hương hỏa lưu truyền, đức thật lớn thay. Trải đến đời vua Trần Nhân Tông, năm Đinh Hợi, niên hiệu Trùng Hưng thứ 3 (1287), nhà Nguyên sai Thượng thư Áo Lỗ Xích phát quân Mông Cổ, quân Nam Nam Hán, 3 hàng tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, cùng lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài biển chia đường vào cướp. Lệnh cho Bình Chương sự Ô Mã Nhi, Tham Tri chính sự Phàn Tiếp, Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ đôn đốc việc xâm phạm vùng Yên Hưng, Bạch Đẳng. Biên ải đưa thư báo tin. Nhà vua ra lệnh cho Đại Nguyên soái Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nhận binh mạnh mười vạn, thuyền chiến năm trăm cử binh tiến đánh. Khi đó Hưng Đạo theo đường thủy, theo sông Hàm Giang mà tiến quân, phàm đi qua nơi đền miếu linh thiêng đều chỉnh biện lễ vật cầu đảo.
Một hôm, khi đi qua huyện An Dương, nghe nói ngôi đền ở Vân Tra nổi tiếng là đệ nhất anh linh, liền đến bái yết, khấn rằng: “Nay người Nguyên mượn cớ xâm lăng, cướp bóc bức hại người lương thiện, người Nam chúng ta lâu nay bị người Nguyên áp bức, cúi mong thần hiển ứng linh thiêng, phù giúp ba quân, cơ hồ được thăng bình, muôn dân yên ổn thì sẽ dâng biểu tâu với đế đình bao tặng sắc phong, để làm rõ sự uy linh của ngài”. Lễ xong, sắc trời đã tối, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền ở bến sông. Ban đêm mộng thấy một viên thần tướng đầu đội mũ trăm sao, thân quấn hoàng bào, tay cầm roi vàng, cưỡi trên mây trắng, theo sau có vô số binh mã, tiêu sáo nhã nhạc vang lừng từ trên trời giáng thắng xuống trước mặt Hưng Đạo Vương, trần tình tên họ, đúng là vị thần ở Vân Tra, rồi nói ta rằng: “Thần vốn là Lôi thần xuất thế. Khi trước còn sống phò tá giúp vua nhà Lý. Nay nắm quyền Chúa tể một phương, nổi mây làm mưa, cứu giúp dân lành. Vừa nay bọn thảo khấu ngu xuẩn nhà Nguyên đến xâm lược, đạo vương hà cớ phải lo. Thần xin thay mặt chúa công, chỉ dùng sức một nửa cánh tay, giặc Nguyên dù có sức mạnh nhưng cũng không thoát khỏi lưới trời được đâu”. Khi Hưng Đạo Vương tỉnh dậy, ghi nhớ sự việc trong giấc mộng. Ngay ngày hôm sau, vương cho xuất quân. Khi đó sấm chớp liên hồi, thuyền đi như bay, chỉ trong chớp mắt đã đến sông Bạch Đằng, giao chiến cùng quân Nguyên. Quân Nguyên thua to tan tác, không chiếc xe nào còn, không chiếc thuyền nào thoát, bắt sống được Thái tử Ô Mã Nhi, dư đảng của Thoát Hoan tất thảy đều dẹp được. Hưng Đạo Vương dẫn quân trở về, đem việc thần báo mộng ở Vân Tra tâu trình lên vua Nhân Tông. Nhà vua lập tức bao tặng cho Kim chương, gia phong cho hai mĩ tự là Phổ Hóa, Hoằng Toàn, sai quan quân rước về Vân Tra kính tế, lại ban cho 20 lạng bạc để làm nhu phí tế lễ vào những dịp xuân thu. Đến năm Hưng Long thứ 21 (1313) đời vua Trần Anh Tông, thiên hạ đại hạn (hạn hán kéo dài), lúa mạ khô cháy, nhà vua lệnh cho quan sở tại cầu đảo liền được mưa ngay, hàng trăm làng xóm đều được mùa lớn. Vua Anh Tông liền phong cho thần là Đức Bác Hồng Ân Đại vương. Từ đó về sau, anh linh hiển ứng, cầu gió được gió, cầu mưa được mưa, xứng danh là Đệ nhất linh từ (đền thiêng số một), vì thế được nhiều đời vua ban tặng cho sắc chỉ và mĩ tự, vì có công hiển hiện linh ứng, ngầm phù dân sinh vậy.
- Phong cho là Lôi công đại vương Thượng đẳng thần
Chuẩn cho phường Vân Tra huyện An Dương phủ Kinh Môn phụng thờ.
- Ngày thánh sinh là 13 tháng 2
- Ngày thánh hóa là 12 tháng 12
- Ngày khánh hạ là mồng 10 tháng 8
- Chữ húy phải cấm là chữ Lôi. Hai chữ Đề Húc nên tránh.
ST.
Nhãn:
Lịch sử
Google Account Video Purchases
Vân Tra, An Đồng, An Dương, Hải Phòng, Việt Nam
Công trình kiến trúc cổng làng Vân Tra
Làng Vân Tra cũng như nhiều làng quê khác, có lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển từ hàng ngàn năm qua. Trải suốt quá trình biến thiên của lịch sử, làng Vân Tra vẫn luôn luôn gắn liền với những hình ảnh thân thương. Đặc biệt hơn những hình ảnh của ngôi đình của mái chùa cổ kính ngàn năm đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử, văn hóa nghệ thuật cấp quốc gia. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, làng Vân Tra đã từng bước thay da đổi thịt. Nhân dân trong làng mọi người đều có cuộc sống cơm no áo ấm, nhà cửa khang trang, đường làng ngõ xóm sạch sẽ phong quang. Đời sống văn hóa tinh thần được nâng cao, phát triển phong phú và đa dạng. Nhưng trong kí ức xa xưa của cha ông còn lưu lại vẫn mờ tỏ đâu đó hình ảnh một cổng làng dù rất đơn sơ nhưng đã trở thành niềm nhung nhớ, nỗi khắc khoải một thời. Hình ảnh một cổng làng đã trở nên niềm mong ước, nỗi khát khao của mỗi người dân trong làng bấy lâu nay. Đã nhiều lần bàn bạc, nhiều ý kiến thiết tha đề nghị, khởi xướng về đề tài cổng làng trong nhiều năm trở lại đây. Vào năm 2005 một ý tưởng và một quyết tâm đã được ban quản lý làng văn hóa nung nấu cùng với sự tham gia sôi nổi nhiệt huyết của đại diện các dòng họ và các bậc cao lão trong làng về việc tiến hành xây dựng cổng làng. Quá trình bàn luận xem xét và cân nhắc, ngay từ gần chục năm trước các bậc cao lão đã thống nhất ý kiến với cấp ủy chi bộ và ban quản lý làng văn hóa lấy địa điểm đầu con đường được hình thành sau quy hoạch dân cư từ đường 208 giáp bờ sông Rế vào di tích đình làng để xây dựng cổng làng. Đồng thời cũng thống nhất quan điểm, mục đích, ý nghĩa xây dựng cổng làng trong lúc này, với sự phát triển theo xu hướng đô thị hóa tốc độ nhanh như hiện nay thì một cổng làng sẽ trở thành một biểu trưng, một hình ảnh gắn liền với tên làng mang hai chữ Vân Tra sẽ tồn tại và lưu lại cho các thế hệ mai sau mãi mãi nhớ về quê hương của mình. Nhân đây cũng nên nhắc nhớ và ôn lại lịch sử đầy tự hào của đất và người Vân Tra cả trong chiều sâu, chiều dài lịch sử từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Cũng chính địa điểm cổng làng bây giờ xưa kia từng có tên gọi Bến Thóc. Nơi hội tụ giao thương giữa các vùng miền lân cận, buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền và là nơi trải qua nhiều triều đại vua quan đã lấy nơi này làm nơi tập kết quân lương, tiếp ứng cho những trận đánh chống quân xâm lược trên sông Bạc Đằng lịch sử. Nơi các vua quan làm địa điểm dừng chân khi đi kinh lý miền duyên hải. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tại Bến Thóc này đã trở thành nơi tập kết của một mũi tấn công bí mất của lực lượng bộ đội chủ lực trong trận đánh kho Sở Dầu lịch sử đã được sự hỗ trợ trực tiếp dẫn đường của các dân quân du kích người làng Vân Tra. Là nơi ghi nhiều dấu ấn những trận đánh phục kích diệt giặc của lực lượng du kích địa phương, ngăn chặn những cuộc hành quân và càn quét của địch từ bốt Rế xuống, từ Hải Phòng lên.
Vào những năm sáu mươi của thể kỉ trước, khi cuộc chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ đánh phá Hải Phòng. Cũng tại mảnh đất Bến Thóc này một trận địa pháo phòng không của sư đoàn 363 cắm chốt bảo vệ thành phố. Đơn vị đã trải qua nhiều trận đánh ác liệt và lập nên nhiều chiến công. Là nơi như trở thành biểu tượng cho tình quân dân giữa những người chiến sỹ dũng cảm với những người dân làng Vân Tra. Vào những ngày mùa hè năm 1965 máu lửa. Tại trận địa phòng không của sư 363 trên vị trí Bến Thóc này một khẩu đội gồm bảy cán bộ chiến sỹ của đơn vị đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu, gây xúc động hàng ngàn người dân địa phương. Năm tháng qua đi, vết tích chiến tranh và trận địa năm xưa không còn nữa. Nhưng những người anh hùng ấy và đơn vị anh hùng ấy như luôn hiện hữu in dấu nới đây, in dấu trong ký ức và trong lòng mỗi người dân làng Vân Tra. Đó là tất cả những lý do khởi xướng, ý tưởng nung nấu về ý nghĩa lịch sử sâu sắc chân thực và sống động nhất, từ trong lãnh đạo vận động tuyên truyền ra toàn thể các tầng lớp nhân dân trong lòng về việc việc quyết định đặt vị trí xây dựng cổng làng tại địa danh Bến Thóc lịch sử của làng Vân Tra. Khi đại đa số nhân dân đã đồng lòng nhất trí, ban vận động xây dựng làng văn hóa hạ quyết tâm vừa tiến hành triển khai thực hiện vừa tiếp tục tuyên truyền và giải thích để nhân dân hiểu, nhiệt tình ủng hộ, tích cực tham gia. Được sự tạo điều kiện và ủng hộ cao của lãnh đạo xã An Đồng. Ngày khởi công công trình được ấn định và tiến hành vào ngày 17 tháng 10 năm 2011. Lãnh đạo huyện, lãnh đạo xã cùng bà con dân làng đã tích cực tham gia đóng góp công của xây dựng Cổng làng. CLB Bogger Đất Cảng đã trao tặng 1.000.000 đ là chút đóng góp của CLB tham gia cùng dân làng. Vượt qua mọi khó khăn về nguồn vốn và thời tiết, công trình được tiến hành trong sự quan tâm, cổ vũ, động viên và trông đợi từng ngày của mỗi người dân trong làng. Quá trình trước và trong thi công, lãnh đạo làng văn hóa đã tổ chức tham khảo, trưng cầu ý kiến rộng rãi trong nhân dân và các nhà chuyên môn, các cá nhân và tập thể có kinh nghiệm, có kiến thức để đúc rút lấy những điểm, những nét kiến trúc vừa dân tộc vừa hiện đại. Không cầu kì rườm rà về cấu trúc hình khối cũng như mọi đường nét về hoa văn trang trí, nhưng vẫn mang đậm nét cổ truyền thanh thoát và bay bổng, đảm bảo sự bền vững, uy nghi và đặc trưng riêng của Vân Tra.
Sau nhiều lần cất công đi lại thăm quan học hỏi, rút kinh nghiệm từ nhiều địa phương trong thành phố cũng như những tỉnh thành khác. Sau nhiều lần trưng cầu ý kiến và lắng nghe những lời tâm huyết tham gia góp ý của nhân dân. Ban lãnh đạo làng văn hóa đã biết tập hợp sự đoàn kết và trí tuệ tập thể để đưa vào từng hạng mục, từng đường nét của công trình cổng làng để ngày hôm nay sau khi hoàn thành công trình, cổng làng đã trở thành niềm vui to lớn, niềm tự hào và tình cảm xúc động của toàn thể cán bộ nhân dân làng văn hóa Vân Tra. Một công trình mang đậm nét văn hóa truyền thống dân tộc. Phản ánh tính sáng tạo tập thể, mang dấu ấn tình cảm, trí tuệ của mỗi gia đình, mỗi người dân trong làng. Một công trình mang tính biểu trưng, một tài sản văn hóa mang ý nghĩa vừa vật thể vừa phi vật thể của làng Vân Tra, và hơn hết là cổng làng mang tên Làng Vân Tra sẽ theo thời gian mãi mãi trường tồn đến mai sau mặc cho bạn vật đổi dời, mặc cho thời cuộc vần xoay và mưa nắng vật vã của đất của trời. Đó là ý nghĩa vĩnh cửu, là niềm tin và niềm tự hào về một cổng làng, một mong đợi lâu nay của toàn thể nhân dân làng Vân Tra. Cổng làng Vân Tra đã trở thành hiện thực, uy nghi, bề thế trên vị trí phía đông bắc đầu làng. Hàng ngày chứng kiến cuộc sống đang thay da đổi thịt, tươi thắm hạnh phúc của từng gia đình từng người dân làng Vân Tra, đồng thời mở ra mọi mối quan hệ giao lưu, kết nối, đoàn kết giữa các làng, xã bạn và anh em bè bạn gần xa. Cũng kể từ nay hai tiếng Cổng làng thân thương sẽ đồng hành với mỗi người và sẽ mang trong mình mọi buồn vui, lo toan, những hạnh phúc những tâm tư tình cảm của lớp lớp thế hệ cha ông lưu lại cho con cháu mai sau.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)



