Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

Thần tích Đức thái úy thành quốc công Đào Lôi

Xưa kia, nước Việt ta là quận Giao Chỉ. Nhờ Hoàng thiên yêu mến, mà mệnh cho họ Hùng mở rộng cơ đồ, truyền mười tám đời đế vương với hơn hai nghìn năm thịnh trị. Thục Vương kế nối, chuyển dời đến nhà Triệu nước Nam Việt, trải qua sự hưng thịnh của 2 họ Lý, tương đương với Lục triều của phương Bắc. Nam Bắc chia cắt kéo dài rồi lại hợp lại. Hai triều Đinh Lê dẹp loạn, thống nhất sơn hà. Trăm họ nhờ thế mà được thái hòa; sông biển vì thế mà được yên ổn. Thật tốt đẹp thay! Vào đời vua Lý Thái Tổ, có người họ Đào, tên Lôi, tên tự là Đề Húc, trước mang họ Nguyễn, sau đổi họ Đào. Trước kia là người ở Hoan Châu, cha tên là Mộc, chuyên tâm theo nghiệp học, tính khoan hòa nhân hậu khi đối đãi với mọi người. Thuở nhỏ, ông (ông Đào Mộc) du học ở Trường An, trú ngụ cạnh chùa Thích Ca. Một hôm, khi đi qua chợ Đông Tân, ông bỗng nhặt được 1 chiếc túi, bèn mang về nhà, mở ra xem thì thấy bên trong có 5 dật vàng. Hôm sau, ông quay lại chỗ đó ngồi đợi. Hồi lâu, bỗng thấy một người khách Bắc quốc hớt hải đi tới kêu cứu sự việc. Ông thăm dò biết là vị khách mất vàng thật, liền hỏi rõ ngọn nguồn, vị khách đối đáp đúng như vậy (nghĩa là trả lời đúng số tiền vàng mất là bao nhiêu). Ông rủ lòng thương cảm, bèn dẫn ông khách đến chỗ bắt được vàng, trả lại toàn bộ số vàng cho người khách. Người khách theo ông về chỗ ở, hậu tạ ông một nửa số vàng. Ông cố từ chối không nhận. Người khách lại cố cảm tạ bằng 1 dật vàng, ông cũng không chịu nhận, và nói rằng: “Nhà tôi ba bốn đời nay vốn tu nhân tích đức, phàm những tài sản không phải mồ hôi nước mắt mình làm ra thì chỉ chi nhỏ nhoi cũng không phạm vào”. Người khách cảm động tấm chân tình, sợ làm phật ý ông nên vái tạ mà nhận lại số vàng trở về. Được vài tháng, người khách lại đến, chọn tìm chỗ đất tốt để báo đáp ơn sâu. Ông liền dẫn người khách Bắc quốc trở về bản ấp, tìm được một huyện đất tại đỉnh núi Tung Sơn, hình thế như con rắn vàng ấp trứng, mạch đất non Tản Lĩnh chạy về. Người khách nói rằng: “Mạch khí thịnh vượng, đúng là thế đất quý, sau sẽ có nhiều chung linh tú khí mà sinh được quý tử, chỉ vài năm sau sẽ trở nên giàu có”. Ông mừng lắm, bèn đem hài cốt của mẹ an táng tại chỗ huyệt đó. Táng xong, người khách khẩn khoản mời ông cùng đến chỗ người khách trú ngụ. Người khách vốn là người ở Vũ Xương, họ Hoàng, tên là Phục, vốn người chính tông Bắc quốc. Nhưng do chốn việc binh dịch nên đến ở nước ta, trú ngụ tại phường Vân Tra huyện An Dương phủ Kinh Môn đạo Hải Dương. Cuối cùng, ông cũng theo người khách trở về Vân Tra yến ẩm, tiệc khách khoản đãi thật nồng hậu. Khi đó, ở Vân Tra có một người họ Đỗ, tên là Hưởng (xét phường đó nguyên trước kia là bờ biển, bốn bên nước nổi, có ba họ Đỗ, Nguyễn, Lê cùng cư trú, tập hợp lại thành một phường). Gia đình ông Đỗ đời đời giàu có, sinh được một cô con gái tên là Thị Uyển, tính nết hiền dịu, tài đức song toàn, học vấn thông hiểu cả. Khi đó, ông thấy nàng đã mừng thầm, liền xin với ông họ Đỗ cho được sánh đôi loan phượng, Đỗ công ưng thuận. Ông sắm lễ vật đầy đủ, rồi từ đó nên duyên Tần Tấn. Vợ chồng ông đưa nhau trở về Trường An kiếm ống để tiện cho việc học. Một hôm, nhân lúc nhàn rồi, ông ngồi một mình trước hiên nhà, có vẻ như ưu tư đáng thương. Thấy tiếng phu nhân không biết từ đâu nói với ông rằng: “Cơ sự trong nhà trôi đi không ngừng, đương lúc cơ trời chẳng biết ra sao, làm sao xét được điều gì như ý, phu quân có việc gì lo lắng đến buồn phiền như vậy?” Ông than rằng: “Cổ nhân nói rằng: Tội bất hiếu có ba, thì tội không có con là nặng nhất1. Tôi nay tuổi đã đến tứ tuần mà điềm lành hùng hùy2 chưa thấy trong giấc mộng. Vả lại người ta sống ở trên đời ngày qua tháng lại, nhanh chóng vụt qua, nên than trách vậy”. Bà phu nhân khuyên giải rằng: “Chàng cứ nghĩ ngợi như vậy sẽ tổn hại đến chí bình sinh. Chẳng bằng hãy dốc lòng làm việc tích đức tu nhân thì phúc lộc sẽ tự sinh ra vậy. Nay ta hãy nên đi khắp các nơi danh lam thắng tích, kêu xin thần minh, may ra được vận may phi yến, cơ hồ thỏa nguyện được chí bình sinh”. Ông tán thành rằng: “Phụ nữ như nàng còn nghĩ được như vậy, huống chi là ta”.
Từ đó, ngày đêm tụng niệm chân kinh, đốt hương đọc tụng thần chú. Mỗi khi tuần rằm đều đến chùa Thích Ca ngầm cầu phúc khánh, không chút trễ nải. Lại trồng cây Ưu đàm trước cửa chùa, chăm lo vun trồng tươi tốt. Khi đó, khí xuân ấm áp, gặp tiết thanh minh, ông cùng phu nhân trở về thăm cha và vái phần mộ mẹ. Vừa đến núi Tung Sơn, ông chỉ cho phu nhân biết rằng: “Mộ này chính là mộ của mẹ ta. Ngày trước có người khách báo đáp ta. Xem ra cũng an ủi lòng ta được rồi”. Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên trời đất tối đen, mưa to gió lớn nổi lên. Bỗng nghe một tiếng sấm sét vang trời như xuyên thẳng vào tai, ánh hào quang đỏ chói như chiếc roi từ trên trời bay xuống, phu nhân bang hoàng ngã lăn ra đất. Trong chốc lát từ từ tỉnh dậy, người chồng đỡ bà lên, bỗng nhìn thấy trước ngực phụ nhân nổi lên đầy nốt mụn như những hạt trân châu. Nhìn kỹ thì thấy tự dạng 8 chữ lớn là Đào gia phúc lý, thiên giáng Lôi thần (nghĩa là: Nhà họ Đào có phúc, trời ban cho Lôi thần). Ông đưa bà về nhà, tám chữ đó như khói bay đi mất. Từ đó, phu nhân có thai. Mang thai được 14 tháng thì sinh ra một người con trai (khi đó là ngày 13 tháng 2 năm Đinh Hợi). Trong khi bà sinh, ông ngồi tựa bàn, bất giác mơ màng ngủ thiếp đi như lạc trong giấc mộng. Bỗng thấy một người dung mạo dị thường tiến thắng tới chỗ ông đang nằm, trần tình hàn huyên rằng: “Thần vốn là chúa tể ở Lôi ty, trước đây đã giáng sinh vào làm Danh tướng nhà họ Đường, vì thế được xứng hàng tướng lệnh. Nhưng trần hoàn chưa hết, lại định cho đến kỳ xem tôn nhân nào có đại phúc, nguyện được đầu thai vào làm con để báo đáp ơn dưỡng dục”. Khi đó bỗng nghe thấy tiếng trống đồng vang lên trong phòng. Nhớ lại việc trong mơ, lại nhìn thấy cây Ưu đàm nở đầy hoa tươi sắc thắm, trong đó có một bông hoa như mặt trời đỏ mới mọc, qua ba tháng mới rụng. Quả nhiên ông sinh được một cậu con trai. Lúc đó gió mưa mịt mùng, trời đất tối đen, sấm sét vang động, hào quang lóe lên quanh nhà, khí lành tràn ngập khắp phòng. Tiếng cậu con trai khóc vang như tiếng chuông vàng, đỉnh đầu như mỏ phượng, mắt sáng như gương soi, trước bụng có hàng lông dài, tướng mạo khắc hẳn người thường. Người cha mừng lắm, trầm tư suy nghĩ đến những điều trùng hợp trong giấc mộng, rồi đặt tên con là Lôi, tên chữ là Đề Húc. Từ đó, không cần nuôi nấng bú mớm nhiều mà tự lớn. Năm lên 8 tuổi, ông cho nhập học. Bản thân biết trước nên nghe một biết mười, vượt hẳn người thường. Những bậc thức giả thường kinh ngạc tán thán rằng: Đúng là người có sức học xung phá mây khói, có tài kinh bang tế thế. Năm 13 tuổi, cha mất, ông theo mẹ là Đỗ thị đến sống ở đất Vân Tra. Ông dốc lòng hiếu kính, thường hay làm việc nhân đức, hiếu nghĩa, cứu giúp mọi người. Chẳng những ở phường Vân Tra có chỗ cậy nhờ, mà hương đảng xung quanh bốn bên cũng được giúp đỡ. Đến khi trường thành, thì thông minh mẫn tiệp, hùng tài đại lược có thể vật hổ đuổi trâu. Lại có phép thuật diệu kỳ hô phong hoán vũ, tứ nghệ đều thông, tam tài đều giỏi. Một hôm, nhân buổi nhàn du ngoạn cảnh, ông thấy trước ấp có một thế đất như hình cóc ngồi trông trăng, núi thiêng gặp mạch tốt, nước mênh mang từng đàn cá đùa chơi, hai con rắn [tr.9] uốn lượn ôm vào, bầy gà nhảy múa, từng con trầu về, thực là thế đất quý. Ông bèn dựng một cái am cỏ ngay trên thế đất thiềm thừ (hình con cóc), tọa Dậu hướng Mão (nằm hướng tây nhìn về hướng Đông), bốc quẻ rồi ở tại đó. Một hôm, bà mẹ Đỗ thị nói rằng: “Từ ngày cha con mất đến nay, đếm ngón tay mới được mấy năm vậy. Mẹ ta hướng mộ đạo Thiền môn, mong nhờ vào phúc sau này. Vả lại ở chùa Thích Ca, năm trước cha con dốc lòng trang hoàng chùa chiền, phong cảnh sáng sủa đẹp mắt. Nay ta xuất gia quy y, trụ trì chùa đó. Con ở nhà phải chuyên cần việc học, sớm đạt công danh, ta mới có thể yên lòng được, cơ hồ thỏa công sinh thành. Có như vậy, không những làm rạng rỡ tông môn, mà cha ở nơi tuyền đài cũng được thỏa lòng ước vọng”. Nói rồi, bà mang theo tư trang, đến chùa Thích Ca quy y. Đến năm ông 24 tuổi, đội ơn nhà vua, được chọn đứng đầu, may mắn sung vào làm Hàn lâm viện Học sĩ, từng được thăng chức Phủ úy ở Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Làm việc chính sự thì thanh liêm chuyên cần, ở nơi lỵ sở thì bình thường giản dị, vì thế được dân hết lòng yêu mến, tiếng tăm vang đến đế đình. Được vua Thái Tổ xuống chiếu mời về kinh phong làm Đô đài. Năm Quý Sửu, năm thứ 4 đời vua Thái Tổ (1013), tướng của người Man là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí dẫn theo 20 vạn quân xâm nhập vào biên cương. Chúng lập đồn ở bến Kim Hoa, bố trí sắp đặt doanh trại quân đội, lấy tên là trại Ngũ Hoa. Hoàng Vinh đem việc đó tâu lên đế đình. Vua phong ông làm Tiềm Kim Ngô tướng quân, cùng với Dực Thánh Vương dẫn quân cùng tiến đánh quân giặc. Ông vái tạ nhà vua rồi nhận mệnh đi. Khi đó, ông dẫn quân trở về Vân Tra, giết mổ trâu bò làm lễ khoản đãi nhân dân. Lại chiêu mộ trong dân được 30 dân đinh cường tráng làm thủ túc, thẳng tiến tới biên giới, giao chiến cùng giặc Man. Đánh 5 trận liên tiếp, tướng Man trông thấy kinh hoàng vội theo gió chạy mất. Ông chém đầu được hàng vạn, bắt sống sĩ tốt nhiều không đếm xuể. Thế rồi, dẫn quân chiến thắng trở về. Nhà vua úy lạo tướng sĩ, tán thán rằng: “Chẳng phí nhiều sức mà dẹp được quân Man, đúng là nhờ sức lớn của Văn Lôi vậy”. Bèn ban thưởng lớn, phong ông làm Bình Chương sự. Từ đó, nhà vua càng yêu mến, luôn giữ bên mình.
Ngày Mậu Tuất, đế băng hà ở điện Long An, khi đó các đình thần vâng theo di chiếu đến cung Long Đức kính rước Thái tử Phật Mã lên ngôi. Ba vương là Đông Chinh, Dực Thánh, Vũ Đức nghe tin, liền dẫn theo quân của phủ mình vào phục sẵn trong cấm thành; Thái tử từ cửa Tường Phủ vào đến điện Càn Nguyên biết có biến loạn, bèn ra lệnh cho Thị nội Lôi công, Lý Nhân Nghĩa, rồi các cung thần là Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng Hiểu mở cửa thành ra đánh. Ai cũng vui lòng xông pha dẹp loạn, đều là một người không phải địch với một người mà địch với trăm người. Quan quân đánh nhau liên tiếp nhiều trận mà chưa phân thắng bại. Lê Phụng Hiểu tức giận rút kiếm thẳng đến cửa Quảng Phúc hô lớn, xông thẳng đến chỗ ngựa của Vũ Đức Vương. Vương dẫn ngựa tránh. Khi đó, Lôi công rút dao xông tới, đánh ngựa quỵ xuống, Vũ Đức Vương bị Phụng Hiểu bắt giết. Thái từ khen ngợi rằng: “Tài hùng lược của Văn Lôi, lòng trung dũng của Phụng Hiểu còn hơn Kính Đức nhiều”. Năm Kỷ Tỵ, Thái tử lên ngôi (sử ghi là năm Kỷ Hợi), đặt hiệu là Lý Thái Tông, đổi niên hiệu là Thiên Thành. Tháng 11, mùa đông, gia tặng cho các công thần có công theo thứ bậc, phong Lôi công làm Tả phúc tâm. Đến năm Canh Ngọ, hai châu Hoan Châu và Ái Châu đều làm phản, vua Lú Thái Tông ra lệnh cho ông đem quân đi đánh dẹp. Ông tiến đến biên cương, cho thu dụng các anh hùng hào kiệt, phủ dụ dân địa phương, vì thế mọi người ở hai châu tất cả đều đầu hàng. Thế rồi, ông dẫn quân trở về, được nhà vua khen ngợi hết lời. Một hôm, đúng dịp tiết xuân hòa khí, ông dâng biểu tấu xin trở về quê thăm thân mẫu. Nhà vua đồng ý, bèn cho xa giá, binh sĩ trở về chốn chùa Thích Ca, yết kiến mẹ hiền. Khi đó, ông mở to mắt nhìn cây Ưu Đàm, lại thấy nở ra một nhành hoa, liền nói với các quan sĩ rằng: “Cây này mà nở hoa, đích thị là điểm lành. Năm trước, chỗ cha mẹ ta cây cũng nở đầy hoa, nên đã sinh ra anh em chúng ta (em ruột tên là Điện, tên tự là Hỏa Quang, được phong là Tích Lịch đại vương. Sự tích được ghi chép ở bản khác). Nay cây này lại nở hoa, cũng là điểm lành vậy”. Ngay ngày hôm đó, liền cho cấp phát của cải để trùng tu chùa chiền. Công việc xong xuôi, đến một hôm thì người mẹ không may qua đời. Ông cho xây dựng một ngôi tháp ở phía tây chùa, nghênh rước thân mẫu an táng ở đó. Lại cho tạc vẽ tượng pháp, lệnh cho nhân dân sở tại phụng thờ. Thời gian thấm thoát qua đi, kỳ báo hiếu đã mãn, nhà vua cho triệu ông về triều giúp việc chính sự, thăng cho ông làm Trung thư thị lang, lại thăng làm Tả tham tri chính sự. Đến năm Quý Mùi, chúa Chiêm là Sạ Đẩu mang theo quân mạnh hàng trăm vạn, chiến hạm đến 3 nghìn xâm lược nước ta, chúng thường ở các cửa biển Đại Ác, Bố Hải, Trụ Nha, Tư Dung. Biên cương có thư cáo cấp một ngày đến 5 lần. Nhà vua lo lắm, liền cho triệu các đình thần bách quan văn võ đến hội nghị bàn kế sách đánh dẹp. Nhà vua đích thân mang binh mã đi đánh Chiêm, phong Lôi công làm Thần Vũ đại tướng quân dẫn 5 nghìn tinh binh, 3 trăm thuyền chiến dẫn quân tiên phong. Nhà vua đóng ở Trung quân, các tường ở Hậu quân. Âm thanh vang động, cờ quạt rợp đất, giáo mác liền trời, tiếng pháo nổ liên thanh như sấm sét kinh thiên động địa.
Quân nhà vua đi đến một nơi, sức lực đã mệt mỏi. Năm Kỷ Tỵ nhà vua liền cho dừng quân, đóng đồn ở Đại Ác, gặp gió yên biển lặng, đại quân chiến thắng. Nhân đó, mới đổi tên Đại Ác thành Đại An. Đến khi qua sông có vũng xoáy, nhà vua ra lệnh cho Lôi công hộ giá thuyền rồng. Khi đó thường thấy xuất hiện một đám mây tía che phía trên chỗ vua ngồi. Nhà vua cho rằng đó là do khí chất của Văn Lôi Thiên tướng, vì thế không ngớt cảm tạ trời đất anh linh, đi chinh chiến tất sẽ thắng lớn. Từ đó, nhà vua luôn giữ Lôi công bên mình. Một hôm, đi qua hai nơi Đại Tiểu Trường Sa, đến cửa biển Tư Dung, tự nhiên có con cá trắng nhảy vào thuyền. Nhà vua nghe tin quân Chiêm Thành dẫn theo nhiều quân và voi xông trận ở bờ Nam sông Ngũ Bồ, liền muốn dàn quan quân, xuống chiếu cho bỏ thuyền trèo lên đường bộ, Quân sĩ nhận mệnh, tất cả tiến lên bờ Bắc, thấy bọn giặc (bên kia) đã la liệt bên sông, nhà vua liền dàn quân sĩ cắm cờ, nổi trống vượt sông đến đánh. Lôi công vung đao mở bày thế trận, đánh 5 trận liền quân Chiêm bỏ chạy tán loạn, đuổi chém được hàng nghìn tên. Ông dồn sức xông lên trước, cùng với Quách Gia Lộng thừa thắng đuổi dài, bốn bên yểm hộ giết được chủ Chiêm là Sạ Đẩu, treo đầu bêu trước trận. Số còn lại bị quan quân giết hết, máu và khí giới trộn đầy, bắt sống được vợ con Sạ Dầu. Nhà vua đưa quân chiến thắng trở về, khen thưởng úy lạo các công thần, gia phong cho tướng sĩ theo thứ bậc, phong Lôi công làm Thái úy Thành quốc cong. Nhân đó, ông mới dâng biểu xin cho quê ngoại Vân Tra làm ấp tháng mộc. Nhà vua ưng thuận chỉ chuẩn cho miễn việc binh dung tô thuế, còn trang Văn vật thì được làm dân hộ nhi. Từ đó dân hai nơi không người nào bị đói rét, người dân thuần hậu, phong tục tốt đẹp, thật đúng là làng phú quý thịnh đạt, tất cả đều nhờ đức của ông vậy. Lại nói, đến năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 2 (1045), có Nùng Trí Cao làm phản nhà vua, chiếm giữu động Vật Ác. Nhà vua lệch cho Quách Thịnh Dật, Thành Quốc công Đào Văn Lôi đi đánh. Đến lúc giao chiên, Lôi công bí mật tung ra [16] kế lạ. Trong chốc lát trời đất tối đen, mưa to gió lớn mịt mù, nghe tiếng sét phát ra từ động núi, thân thể các tù trưởng động ấy bị xé tan, cả động ấy kinh hãi, Trí Cao phải dẫn thân đầu hàng, họ Nùng được dẹp yên. Ông từ khi thân chinh đánh giặc chưa một lần giết sằng bậy, chưa tơ hào chút của cải gì. Nhà vua càng yêu kính, xếp vào hàng Thái bảo Lĩnh quận công. Đến khi vua Thái Tông băng, vâng theo di chiếu lập Thái tử Nhật Tôn lên ngôi, lấy hiệu là Thánh Tông. Vì ông nhiều lần tong chinh đánh giặc, nhiều lần lập công tích lớn lao, nên vào năm Long Chương Thiên Tự (1066-1068), ông lấy cớ tuổi cao, xin trở về quê hương. Vua Thánh Tông thấy ông là người phụng sự trải ba triều vua, có nhiều công lao oanh liệt nên đã ban cho ông được nghỉ. Lại ban cho quân sĩ tùy tong về quê, vẫn cho tham dự việc triều chính. Vua Thái Thông thường hay đến nơi ở của ông (phủ đệ ở phường Vân Tra), phàm có việc nước đều đến hỏi ông. Ông từ khi trí sĩ, đường cúc thênh thang, liền mở trường nhận học trò dạy học. Sĩ tử bốn phương kéo đến học rất đông. Ông khéo dẫn dụ, giảng dạy, nên người thành đạt đến hơn hai trăm người. Người đời xưng tụng là Phu tử chốn vân am.
Khi đó có giặc Tống đến xâm lược, vua Thánh Tông lo lắng không yên, lại ban chiếu cho triệu ông đến bàn việc. Ông phụng mệnh hồi triều, vừa đi qua chùa Thích Ca, thấy cây Ưu Đàm trồng từ năm trước nở đầy hoa, sắc tươi khoe thắm, thì tự nhiên bỗng thấy rụng rơi lả tả. Nghĩ rằng đó là điềm chẳng lành, liền quay lại dặn dò gia thuộc ở Vân Tra rằng: “Nay ta phụng mệnh nhà vua đi chinh chiến. Bình giặc xong chắc sẽ trở về Thiên cung. Các ngươi hãy báo rõ với nhân dân, nếu như có nhớ đến công đức của ta thì hãy hương hỏa thờ cúng ta, nếu thấy ở phía đông bắc có vầng ánh sáng thì đó chính là tinh thần của ta hiện hữu ở đó. Còn ở nơi ta ở, hãy lập điện để phụng thờ”. Dặn dò xong, ông tiến quân đánh nhau với quân Tống. Khi đánh giặc xong, ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu. Vừa đến chân núi, bỗng nhiên thấy gió lốc cuồng phong nổi lên, ông bay lên không trung biến mất, không biết nơi nào. Trong chốc lát trời quang sáng, thấy áo quần của ông vẫn ở chân núi, quân sĩ liền chôn ngay chỗ đó. Quân sĩ trở về tấu trình đầy đủ với vua Thánh Tông. Nhà vua lập tức phong tặng sắc chỉ, ban cho mĩ tự là Lôi Công thượng đẳng thần, truyền lệnh cho lập miếu ngay chỗ ngài hóa để phụng thờ. Khi đó, những người ở Vân Tra theo ông đánh giặc trở về trình báo sự việc. Nhân dân phụ lão tất cả đều cảm tạ ân đức của ông, lập tức tuân theo lời dặn dò của ông cho sửa sang nơi ở, viết thần hiệu Lôi công Thiên thần để phụng thờ. Lại đến trước đế đình tâu trình, vua Lý Thánh Tông ban cấp cho sắc lệnh mang về thờ phụng, rất là linh ứng. Phàm những việc trộm cắp bất minh, hễ đến đền cầu đảo đều hiện rõ tốt xấu. Gặp năm hạn hán, dân sắm lễ đến tế, lập tức thấy ở hướng Đông Bắc có ánh chớp hiện lên, sấm sét nổ vang báo hiệu điềm lành, rồi mưa to chan hòa, thấm nhuần khắp nơi. Nhà vua cho là linh ứng, liền gia phong cho ba mĩ tự là Vân Uy, Linh Cảm, Hiển Ứng. Phụng ban cho một trăm tiền đồng, truyền cho tạc tượng thần, trùng tu điện vũ, hương hỏa lưu truyền, đức thật lớn thay. Trải đến đời vua Trần Nhân Tông, năm Đinh Hợi, niên hiệu Trùng Hưng thứ 3 (1287), nhà Nguyên sai Thượng thư Áo Lỗ Xích phát quân Mông Cổ, quân Nam Nam Hán, 3 hàng tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, cùng lính Vân Nam, lính người Lê ở 4 châu ngoài biển chia đường vào cướp. Lệnh cho Bình Chương sự Ô Mã Nhi, Tham Tri chính sự Phàn Tiếp, Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ đôn đốc việc xâm phạm vùng Yên Hưng, Bạch Đẳng. Biên ải đưa thư báo tin. Nhà vua ra lệnh cho Đại Nguyên soái Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nhận binh mạnh mười vạn, thuyền chiến năm trăm cử binh tiến đánh. Khi đó Hưng Đạo theo đường thủy, theo sông Hàm Giang mà tiến quân, phàm đi qua nơi đền miếu linh thiêng đều chỉnh biện lễ vật cầu đảo.
Một hôm, khi đi qua huyện An Dương, nghe nói ngôi đền ở Vân Tra nổi tiếng là đệ nhất anh linh, liền đến bái yết, khấn rằng: “Nay người Nguyên mượn cớ xâm lăng, cướp bóc bức hại người lương thiện, người Nam chúng ta lâu nay bị người Nguyên áp bức, cúi mong thần hiển ứng linh thiêng, phù giúp ba quân, cơ hồ được thăng bình, muôn dân yên ổn thì sẽ dâng biểu tâu với đế đình bao tặng sắc phong, để làm rõ sự uy linh của ngài”. Lễ xong, sắc trời đã tối, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền ở bến sông. Ban đêm mộng thấy một viên thần tướng đầu đội mũ trăm sao, thân quấn hoàng bào, tay cầm roi vàng, cưỡi trên mây trắng, theo sau có vô số binh mã, tiêu sáo nhã nhạc vang lừng từ trên trời giáng thắng xuống trước mặt Hưng Đạo Vương, trần tình tên họ, đúng là vị thần ở Vân Tra, rồi nói ta rằng: “Thần vốn là Lôi thần xuất thế. Khi trước còn sống phò tá giúp vua nhà Lý. Nay nắm quyền Chúa tể một phương, nổi mây làm mưa, cứu giúp dân lành. Vừa nay bọn thảo khấu ngu xuẩn nhà Nguyên đến xâm lược, đạo vương hà cớ phải lo. Thần xin thay mặt chúa công, chỉ dùng sức một nửa cánh tay, giặc Nguyên dù có sức mạnh nhưng cũng không thoát khỏi lưới trời được đâu”. Khi Hưng Đạo Vương tỉnh dậy, ghi nhớ sự việc trong giấc mộng. Ngay ngày hôm sau, vương cho xuất quân. Khi đó sấm chớp liên hồi, thuyền đi như bay, chỉ trong chớp mắt đã đến sông Bạch Đằng, giao chiến cùng quân Nguyên. Quân Nguyên thua to tan tác, không chiếc xe nào còn, không chiếc thuyền nào thoát, bắt sống được Thái tử Ô Mã Nhi, dư đảng của Thoát Hoan tất thảy đều dẹp được. Hưng Đạo Vương dẫn quân trở về, đem việc thần báo mộng ở Vân Tra tâu trình lên vua Nhân Tông. Nhà vua lập tức bao tặng cho Kim chương, gia phong cho hai mĩ tự là Phổ Hóa, Hoằng Toàn, sai quan quân rước về Vân Tra kính tế, lại ban cho 20 lạng bạc để làm nhu phí tế lễ vào những dịp xuân thu. Đến năm Hưng Long thứ 21 (1313) đời vua Trần Anh Tông, thiên hạ đại hạn (hạn hán kéo dài), lúa mạ khô cháy, nhà vua lệnh cho quan sở tại cầu đảo liền được mưa ngay, hàng trăm làng xóm đều được mùa lớn. Vua Anh Tông liền phong cho thần là Đức Bác Hồng Ân Đại vương. Từ đó về sau, anh linh hiển ứng, cầu gió được gió, cầu mưa được mưa, xứng danh là Đệ nhất linh từ (đền thiêng số một), vì thế được nhiều đời vua ban tặng cho sắc chỉ và mĩ tự, vì có công hiển hiện linh ứng, ngầm phù dân sinh vậy.
- Phong cho là Lôi công đại vương Thượng đẳng thần
Chuẩn cho phường Vân Tra huyện An Dương phủ Kinh Môn phụng thờ.
- Ngày thánh sinh là 13 tháng 2
- Ngày thánh hóa là 12 tháng 12
- Ngày khánh hạ là mồng 10 tháng 8
- Chữ húy phải cấm là chữ Lôi. Hai chữ Đề Húc nên tránh.
ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét